Ngày 20/12/2021, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/12/2021.
Theo quy định tại Điều 201 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được quy định như sau:
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
- Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Cho vay lãi nặng theo Nghị quyết là trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 là 20%/năm. Tuy nhiên, để xác định một người phạm tội này, ngoài việc cho vay với mức lãi suất nêu trên thì người cho vay lãi nặng phải thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội, Nghị quyết quy định ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự thì khi xét xử cần xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, hoạt động dưới hình thức băng, ổ nhóm thì xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt tù là hình phạt chính. Khi áp dụng hình phạt chính không phải là hình phạt tiền thì phải xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
Về xử lý vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm, Nghị quyết quy định tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với khoản tiền, tài sản khác người phạm tội dùng để cho vay; tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà người phạm tội đã thu của người vay; tiền, tài sản khác mà người phạm tội có thêm được từ việc sử dụng tiền lãi và các khoản thu bất hợp pháp khác. Khoản thu lợi bất chính mà người phạm tội thực tế đã thu được trả lại cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay tiền vay vào mục đích bất hợp pháp thì khoản thu lợi bất chính này bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Nghị quyết này cũng quy định về việc tính số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự, cụ thể:
– Trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự trong cả kỳ hạn vay.
– Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn.
– Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể:
– Người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30.000.000 đồng trở lên, nếu mỗi lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Ví dụ: người cho vay lãi nặng 2 lần, lần thứ nhất thu lợi bất chính 40.000.000 đồng, lần thứ hai thu lợi bất chính 60.000.000 đồng, thì tổng số tiền thu lợi bất chính là 100.000.000 đồng (những lần cho vay lãi nặng này đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự). Trường hợp này người cho vay lãi nặng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” do mỗi lần cho vay lãi nặng đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
– Người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000 đồng, nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và các hành vi này chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, thì truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 2 lần trở lên”. Ví dụ: người cho vay lãi nặng 03 lần, mỗi lần thu lợi bất chính 20.000.000 đồng, thì tổng số tiền thu lợi bất chính là 60.000.000 đồng (các lần cho vay lãi nặng trên chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính). Trường hợp này người cho vay lãi nặng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự, không áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 2 lần trở lên” do mỗi lần cho vay lãi nặng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
– Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có một lần cho vay lãi nặng, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và hành vi cho vay lãi nặng này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; còn các hành vi cho vay lãi nặng khác thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, các hành vi này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên”. Ví dụ: người phạm tội cho vay lãi nặng 04 lần, lần thứ nhất thu lợi bất chính 40.000.000 đồng (chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự), 3 lần còn lại thu lợi bất chính mỗi lần 25.000.000 đồng (các lần này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính), thì tổng số tiền thu lợi bất chính là 115.000.000 đồng. Trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 201 của Bộ luật Hình sự, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” do trong các lần cho vay lãi nặng trên chỉ có một lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
– Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,… thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ví dụ: do người vay chưa trả nợ nên khi thấy người vay đang đi ngoài đường, người cho vay lãi nặng đã dùng vũ lực để lấy tài sản thì ngoài bị xử lý về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì người cho vay lãi nặng còn bị xử lý về tội cướp tài sản.
– Trường hợp người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được. Khi quyết định hình phạt Tòa án áp dụng Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự về phạm tội chưa đạt.
Ngoài ra, về tư cách tham gia tố tụng đối với người vay Nghị quyết xác định người vay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Đối với tội phạm đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Liêm