Trợ giúp pháp lý là việc Nhà nước cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của của pháp luật, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Đối tượng được trợ giúp pháp lý
Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 (Luật Trợ giúp pháp lý) thì người được trợ giúp pháp lý gồm:
“1. Người có công với cách mạng.
2. Người thuộc hộ nghèo.
3. Trẻ em.
4. Người dân tộc thiểu số cưtrú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
5. Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
6. Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo.
7. Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính:
a) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ;
b) Người nhiễm chất độc da cam;
c) Người cao tuổi;
d) Người khuyết tật;
đ) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự;
e) Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình;
g) Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người;
h) Người nhiễm HIV”.

Để hiểu rõ hơn về các đối tượng được trợ giúp pháp lý trên ta cần hiểu thêm về một số quy định khác của pháp luật có liên quan.
Thứ nhất, người có công cách mạng là: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; liệt sĩ; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; bệnh binh; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; người có công giúp đỡ cách mạng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 (từ ngày 01/7/2021 Pháp lệnh Ưu đã người có công với cách mạng 2020 có hiệu lực thi hành thì người có công với cách mạng được quy định tại khoản 1 Điều 3 của luật này).
Thứ hai, trẻ em là người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016.
Thứ ba, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 76/2019/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2019 của Chính phủ thì vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn gồm: Huyện đảo Trường Sa, Hoàng Sa; DK1; các xã khu vực III thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi, xã đảo đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tưởng Chính phủ; các thôn, buôn, xóm, bản, làng, phum, sóc, ấp,…(gọi chung là thôn) đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ tư, người bị buộc tội gồm “người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” theo điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thứ năm, người có khó khăn về tài chính quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý được hiểu “ …là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật” – Điều 2 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Trợ giúp pháp lý. Ngoài ra, người cao tuổi là “công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi 2009.
Quyền của người được trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý được thực hiện trong một số hoạt động như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng. Trong các hoạt động trợ giúp pháp lý trên thì tham gia tố tụng là hoạt động hết sức quan trọng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người được trợ giúp pháp lý, đặc biệt là người bị buộc tội trong các vụ án hình sự. Do đó cần thiết phải đảm bảo để người được trợ giúp pháp lý thực hiện quyền của mình. Quyền của người được trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý. Theo đó, người được trợ giúp pháp lý có các quyền sau:
“1. Được trợ giúp pháp lý mà không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác…”
2. Tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý.
3. Được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý khi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan nhà nước có liên quan.
4. Yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc trợ giúp pháp lý.
5. Lựa chọn một tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương trong danh sách được công bố; yêu cầu thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý khi người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25của Luật này.
6. Thay đổi, rút yêu cầu trợ giúp pháp lý.
7. Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
8. Khiếu nại, tố cáo về trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan“.
Thực tiễn cho thấy đa số những người được trợ giúp pháp lý đều thiếu kiến thức pháp luật nên không biết được mình thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, pháp luật quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo, giải thích để người được trợ giúp pháp lý thực hiện quyền của mình. Tại khoản 1 Điều 71 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước”. Tương tự như vậy, khoản 3 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”.
Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng phải hỏi người tham gia tố tụng xem họ có thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý hay không. Trường hợp họ thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý thì phải giải thích để họ tự liên hệ với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để thực hiện quyền của mình; yêu cầu Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cộng tác viên bào chữa cho người bị buộc tội nếu thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định của pháp luật.
Hồ sơ yêu cầu trợ giúp pháp lý
Khi yêu cầu trợ giúp pháp lý, người yêu cầu phải nộp hồ sơ cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý hồ sơ gồm có:
– Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý.
– Giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
– Các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý.
Việc nộp hồ sơ yêu cầu trợ giúp pháp lý được thực hiện như sau:
– Trường hợp nộp trực tiếp tại trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp các giấy tờ, tài liệu gồm: Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý và các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý; xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý. Nếu người yêu cầu trợ giúp pháp lý không thể tự mình viết đơn yêu cầu thì người tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm ghi các nội dung vào mẫu đơn để họ tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe và yêu cầu họ ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn.
– Trường hợp gửi hồ sơ qua dịch vụ bưu chính, người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp các giấy tờ, tài liệu gồm: Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý và các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý, bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
– Trường hợp gửi hồ sơ qua fax, hình thức điện tử, khi gặp người thực hiện trợ giúp pháp lý, người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với Nhân dân là những người nghèo, đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để đưa pháp luật đến với họ, bảo vệ quyền, lợi ích của họ, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Liêm